- Cho vay theo chuỗi giá trị là gì?
Cho vay theo chuỗi giá trị (value chain finance) là một trong các chiến lược cho vay nông nghiệp rất phổ biến và mang lại hiệu quả trên thế giới hiện nay. Theo Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc (FAO, 2010), cho vay theo chuỗi giá trị được định nghĩa là các dòng vốn đầu tư vào các liên kết khác nhau trong một chuỗi giá trị. Nói cách khác, đó là bất kỳ hoặc tất cả các dịch vụ, sản phẩm tài chính và dịch vụ hỗ trợ để tạo vốn cho một chuỗi giá trị nhằm giải quyết những nhu cầu và khó khăn của những người tham gia trong chuỗi đó, có thể là một nhu cầu về tài chính, nhu cầu để bảo đảm an toàn cho việc bán hàng, mua sắm sản phẩm, giảm thiểu rủi ro và/hoặc nâng cao hiệu quả trong chuỗi. Cho vay theo chuỗi giá trị là một cách tiếp cận toàn diện trong đó không chỉ ở người đi vay trực tiếp mà còn là quá trình phân tích và dự báo về từng thời kỳ cụ thể để lựa chọn cho vay theo các công đoạn, các khâu trong chuỗi giá trị. Ở đây, các mối liên kết trong chuỗi cũng có thể cho phép đầu tư theo dòng vốn lên hoặc xuống trong chuỗi.
Quá trình cho vay theo chuỗi giá trị sẽ được tham gia bởi những người đi vay (borrowers), những người cho vay (lenders) và những sản phẩm cho vay (lending products). Những người đi vay bao gồm những người nông dân tham gia sản xuất nông nghiệp (có thể là hộ gia đình vừa và nhỏ, một nhóm sản xuất có tổ chức, một hiệp hội hay hợp tác xã); các đối tượng tham gia vào tất cả các phương diện của quá trình kinh doanh nông nghiệp (bao gồm các nhà cung cấp nguyên liệu đầu vào hay quy trình xử lý như phân bón, hóa chất, xay xát, khử nước, làm lạnh; các nhà cung cấp thiết bị, bán buôn; và các nhà cung cấp dịch vụ như lưu trữ, tài xế xe tải,,,); và các doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất nông nghiệp hay chế biến xuất khẩu. Những người cho vay bao gồm các định chế tài chính (các NHTM, các định chế tài chính phi ngân hàng, các tổ chức tài chính vi mô, các hiệp hội tín dụng cho vay và tiết kiệm) và các nhà cung cấp tín dụng trong quá trình bán sản phẩm hoặc dịch vụ. Những sản phẩm cho vay chính là các khoản tín dụng ngắn hạn (< 12 tháng); tín dụng trung hạn (từ 13 tháng – 60 tháng); tín dụng dài hạn (hơn 60 tháng) và các sản phẩm cho thuê tài chính.
Quá trình cho vay theo chuỗi giá trị sẽ cho phép tích hợp các chủ thể tham gia khác nhau trong quy trình sản xuất, chế biến, phân phối và tiêu thụ sản phẩm. Các vai trò khác nhau của các chủ thể tham gia sẽ được phân định, trong khi đó tại cùng một thời điểm, phạm vi và mục đích của các đối tác trong chuỗi giá trị cũng có thể được thiết lập. Điều quan trọng, đối tượng cho vay trong chuỗi giá trị phải nhận ra được toàn thể chuỗi và những trọng tâm cần phải tập trung để đáp ứng nhu cầu cụ thể của những khách hàng – những nhà cung cấp đầu vào, những người sản xuất, những thương nhân, những người chế biến gia công và những người khác trong chuỗi.
Các dòng vốn và sản phẩm trong một chuỗi giá trị
Trong chuỗi giá trị, dòng tiền cho vay sẽ chảy theo hai hướng, tùy thuộc vào chuỗi giá trị cụ thể và/hoặc khu vực hay đặc tính của các công ty và các chủ thể tham gia. Ví dụ, trong ngành trồng cây lúa, những nhà bán buôn lớn thường cho các thương nhân vay để họ lại đầu tư tài chính cho những người sản xuất. Cùng lúc đó, những người chế biến gia công nhận được hạt lúa gạo chưa qua chế biến từ người nông dân và những người sản xuất chỉ thanh toán một phần vì họ hiểu rằng công đoạn thanh toán cuối cùng sẽ được thực hiện sau khi gạo được chế biến và bán ra. Trong trường hợp này, những người nông dân là những nhà đầu tư tài chính cho công đoạn xay xát lúa gạo.
Cần lưu ý rằng trong chuỗi giá trị các chủ thể tham gia có thể là người nhận, sử dụng các khoản đầu tư tài chính nhưng cũng có thể là các nhà cung cấp tài chính. Ví dụ, một nhà cung cấp đầu vào thường đi vay để mua hàng và cũng có thể bán chịu các nguyên liệu đầu vào cho người nông dân. Người nông dân có thể mua chịu nguyên liệu đầu vào, họ có thể nhận tiền đặt trước từ các nhà gia công chế biến (trực tiếp hoặc thông qua các hiệp hội của họ) và họ cũng có thể đầu tư bằng hiện vật, chẳng hạn như thông qua các khoản thanh toán trả chậm cho sản phẩm của họ từ những người xát lúa, siêu thị.
Một số hạn chế về thực trạng cho vay theo chuỗi giá trị:
Theo tổng hợp từ một số nước đang phát triển vùng Châu Phi cận Saharan, một số vấn đề tồn tại cần phải giải quyết trong cho vay theo chuỗi giá trị lĩnh vực nông nghiệp bao gồm:
– Mô hình kinh doanh của các định chế tài tài chính: Trong mô hình cũ, nhân viên ngân hàng nói chung rất thụ động và họ luôn chờ đợi khách hàng đến tìm họ. Trong khi nhu cầu tiếp cận vốn theo hình thức cho vay theo chuỗi giá trị đòi hỏi cán bộ tín dụng phải chủ động tìm kiếm và quan hệ với khách hàng, cũng như đưa ra cách điều tra giám sát ở mức độ cao hơn đối với các lĩnh vực cần quan tâm.
– Cơ sở hạ tầng tại khu vực nông thôn còn yếu kém: điều này làm tăng thêm chi phí kinh doanh và gây khó khăn cho cả các thành viên tham chuỗi giá trị lẫn cán bộ ngân hàng.
– Văn hóa tín dụng kém do sự can thiệp của chính phủ, các chính sách xóa nợ hay sự tham gia của các dự án.
– Kiến thức hạn chế về mô hình, kỹ thuật cho vay theo chuỗi giá trị của cán bộ tín dụng.
– Lãi suất cao: Điều này thường là thách thức cho các tổ chức tài chính vi mô khi phần lớn các khách hàng của họ đều tham gia vào hoạt động trao đổi thương mại dựa trên doanh thu cao. Ở một số nước, đây cũng có thể là thách thức đối với các ngân hàng khi có nhiều loại phí ảnh hưởng đến hiệu quả tín dụng.
– Vốn tài sản/khả năng thanh khoản không có tiềm năng: Tiền gửi tại các ngân hàng và định chế tài chính khác nói chung là ngắn hạn và trung hạn. Điều này cản trở khả năng cho vay của các định chế tài chính đối với nhu cầu trung và dài hạn.
– Ràng buộc pháp lý: Ràng buộc pháp lý có thể bao gồm các quy định của ngân hàng áp đặt đối với khách hàng (ví dụ như yêu cầu về tài sản thế chấp).
– Quyền sở hữu đất đai cũng là một vấn đề quan trọng và đặc biệt gây bất lợi cho lĩnh vực nông nghiệp. Ở nhiều nước châu Phi, việc thu hồi đất và việc đảm bảo quyền sử dụng đất là một quy trình tốn nhiều thời gian. Kết quả là, nhiều nông dân không có cơ sở chứng minh rõ ràng với mảnh đất mà họ đang sinh sống hoặc làm việc. Điều này gây trở ngại cho việc cho vay của ngân hàng.
– Khả năng tiếp cập công nghệ hiện đại hạn chế: Phần lớn các định chế tài chính không có công nghệ cần thiết để cho phép họ làm việc có hiệu quả ở khu vực nông thôn. Đó chính là những hạn chế về số lượng máy ATM, mobile banking, máy thanh toán tiền kết nối trong thời gian thực với phần mềm MIS của các ngân hàng, và các vấn đề cốt lõi trong CNTT cho phép các ngân hàng theo dõi
và tích hợp các hộ gia đình sản xuất với các ngân hàng và thị trường tài chính.
- Thực trạng triển khai cho vay chuỗi giá trị sản xuất nông nghiệp tại Việt Nam và giải pháp cho hệ thống ngân hàng
Ngày 10/6/2013, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 899/QĐ-TTg phê duyệt Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Tại Nghị quyết 14/NQ-CP ngày 05/3/2014 phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 2/2014, Chính phủ giao Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Bộ NN&PTNT), Bộ Khoa học và Công nghệ (Bộ KH&CN) xây dựng chương trình cho vay thí điểm phục vụ phát triển nông nghiệp theo các nội dung ưu tiên sau: các mô hình liên kết trong chuỗi sản xuất sản phẩm nông nghiệp, các mô hình sản xuất áp dụng khoa học và công nghệ cao, các mô hình liên kết trong chuỗi sản xuất sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu. Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, NHNN đã ban hành Quyết định 1050/QĐ-NHNN (QĐ 1050) ngày 28/5/2014 về chương trình cho vay thí điểm phục vụ phát triển nông nghiệp theo Nghị quyết 14/NQ-CP của Chính phủ với cơ chế tín dụng đặc thù như: (i) lãi suất cho vay ưu đãi thấp hơn lãi suất cho vay thông thường khoảng từ 1-1,5%/năm (ngắn hạn: 7%/năm, trung hạn: 10%/năm, dài hạn: 10,5%/năm)[1]; (ii) mức cho vay lên đến 90% giá trị của phương án, dự án vay vốn; (iii) những mô hình liên kết theo chuỗi giá trị khép kín từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ có thời gian vay trên 12 tháng (nhưng không quá 18 tháng), mỗi khâu (sản xuất, chế biến, tiêu thụ) đều dưới 12 tháng và khách hàng cam kết trả một phần nợ sau mỗi khâu của chuỗi thì ngân hàng thương mại (NHTM) xem xét áp dụng lãi suất cho vay ngắn hạn đối với khách hàng; (iv) trường hợp khách hàng không có đủ tài sản bảo đảm ngân hàng có thể cho vay không cần tài sản bảo đảm trên cơ sở kiểm soát dòng tiền. Trong giai đoạn thực hiện thí điểm theo QĐ 1050, đã có 07 ngân hàng thương mại (NHTM) tham gia vào dự án, tài trợ cho 22 doanh nghiệp trên toàn quốc thực hiện 22 dự án tại 17 tỉnh, thành phố tham gia chương trình cho vay thí điểm mô hình liên kết; trong đó giải ngân cho 10 dự án chuỗi liên kết sản xuất sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu, 11 dự án liên kết sản xuất sản phẩm nông nghiệp và 01 dự án ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp.
Ngày 09/06/2015, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 55/2015/NĐ-CP (Nghị định 55) về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn thay thế Nghị định số 41/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 trước đây. Nghị định 55 đi kèm là thông tư 10/2015/TT-NHNN ban hành ngày 22/7/2015 và có hiệu lực ngày 25/7/2015 cùng với nghị định 55. Theo đó, về chính sách tín dụng khuyến khích sản xuất nông nghiệp theo mô hình liên kết, các doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã ký hợp đồng cung cấp, tiêu thụ đối với tổ chức, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp được tổ chức tín dụng xem xét cho vay không có tài sản bảo đảm tối đa bằng 70% giá trị của dự án, phương án cho vay theo mô hình liên kết; và đảm bảo tối đa 80% đối với doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã đầu mối ký hợp đồng thực hiện dự án liên kết theo chuỗi giá trị trong sản xuất nông nghiệp.Chương trình thí điểm cho vay chuỗi liên kết trong sản xuất và ứng dụng công nghệ cao theo Nghị quyết 14 của Chính phủ cũng kết thúc từ khi Nghị định 55 ra đời.
Về cơ chế bảo đảm tiền vay, tổ chức tín dụng được xem xét cho khách hàng vay trên cơ sở có bảo đảm hoặc không có bảo đảm bằng tài sản theo quy định của pháp luật. Cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, hộ kinh doanh, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã và chủ trang trại được tổ chức tín dụng cho vay không có tài sản bảo đảm theo 8 mức:
1- Tối đa 50 triệu đồng đối với cá nhân, hộ gia đình cư trú ngoài khu vực nông thôn có hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp (trừ trường hợp nêu tại mức 3).
2- Tối đa 100 triệu đồng đối với cá nhân, hộ gia đình cư trú tại địa bàn nông thôn; cá nhân và hộ gia đình cư trú ngoài khu vực nông thôn có tham gia liên kết trong sản xuất nông nghiệp với hợp tác xã hoặc DN (trừ trường hợp nêu tại mức 3).
3- Tối đa 200 triệu đồng đối với cá nhân, hộ gia đình đầu tư cây công nghiệp, cây ăn quả lâu năm.
4- Tối đa 300 triệu đồng đối với tổ hợp tác và hộ kinh doanh.
5- Tối đa 500 triệu đồng đối với hộ nuôi trồng thủy sản, hộ khai thác hải sản xa bờ có ký hợp đồng tiêu thụ sản phẩm với tổ chức chế biến và xuất khẩu trực tiếp.
6- Tối đa 1 tỷ đồng đối với hợp tác xã, chủ trang trại hoạt động trên địa bàn nông thôn hoặc hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp.
7- Tối đa 2 tỷ đồng đối với hợp tác xã nuôi trồng thủy sản hoặc khai thác hải sản xa bờ, cung cấp dịch vụ phục vụ khai thác hải sản xa bờ; các chủ trang trại nuôi trồng thủy sản; liên hiệp hợp tác xã hoạt động trên địa bàn nông thôn hoặc hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp không bao gồm các đối tượng thuộc mức 8.
8- Tối đa 3 tỷ đồng đối với liên hiệp hợp tác xã nuôi trồng thủy sản hoặc khai thác hải sản xa bờ, cung cấp dịch vụ phục vụ khai thác hải sản xa bờ.
Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước đang sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ như quản lý trần lãi suất cho vay, sử dụng dự trữ bắt buộc, công cụ tái cấp vốn để hướng dòng vốn tín dụng vào 5 lĩnh vực ưu tiên, cụ thể: (i) Khống chế trần lãi suất cho vay với nông nghiệp, nông thôn; xuất khẩu; công nghiệp phụ trợ; doanh nghiệp nhỏ và vừa; công nghệ cao (hiện ở mức 7%/năm) theo Thông tư 08/2014/TT-NHNN ngày 17/3/2014; (ii) Giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc và sử dụng công cụ tái cấp vốn để khuyến khích dòng vốn tín dụng vào nông nghiệp theo Thông tư 20/2010/TT-NHNN, ngày 29/9/2010; (iii) Kết hợp chính sách tín dụng của ngân hàng với chính sách tài khóa trong hỗ trợ lãi suất giảm tổn thất sau thu hạch, với mức hỗ trợ 100% hoặc 50% theo thời gian vay là phù hợp.
Về thực trạng cho vay theo chuỗi giá trị tại các ngân hàng thương mại Việt Nam, theo báo cáo kết quả khảo sát của Viện Chiến lược ngân hàng được ban hành vào tháng 1/2017 thông qua hình thức phiếu điều tra tại 28 tỉnh/thành phố trên cả nước, có thể thấy cho vay theo chuỗi giá trị được coi là một mảng kinh doanh tiềm năng và có 66,4% ngân hàng có kế hoạch mở rộng hoạt động này trong ngắn-trung hạn; đặc biệt là chuỗi liên kết sản xuất sản phẩn nông nghiệp, thủy sản. Hiện nay, nhiều NHTM đã thực hiện cho vay theo chuỗi giá trị với các sản phẩm dựa theo phân khúc thị trường, định hướng chiến lược của ngân hàng mình kèm theo những dịch vụ tài chính đa dạng. Các ngân hàng chủ yếu tập trung vào sản phẩm dịch vụ thanh toán (85,5%) và tiền gửi (75%); bên cạnh đó 55,5% ngân hàng áp dụng sản phẩm dịch vụ thẻ, 48,2% áp dụng mua bán ngoại tệ, 47,3% áp dụng tài trợ xuất nhập khẩu, 44,6% áp dụng quản lý dòng tiền và 32,7% áp dụng thu hộ – chi hộ tiền mặt. Do đây là một hình thức cho vay mới nên một số dịch vụ tài chính cho vay theo chuỗi giá trị hiện đang khá phổ biến trên thế giới thì còn khá khiêm tốn tại Việt Nam hay số định chế tài chính tham gia trong chuỗi còn ít (như cho thuê tài chính: 10,9%; bao thanh toán: 17,3%). Ngoài ra, trong quá trình triển khai cho vay theo chuỗi giá trị thực tế vẫn gặp nhiều khó khăn khi không có đủ tài sản đảm bảo theo quy định hay tài sản đảm bảo không đủ giá trị để cho vay. Do vậy, các NHTM nhận định hoạt động cho vay theo chuỗi giá trị còn ẩn chứa nhiều rủi ro, bao gồm cả rủi ro tín dụng, rủi ro hoạt động và rủi ro thị trường. Theo đánh giá của các NHTM, yếu tố rủi ro trong cho vay theo chuỗi giá trị chính là việc giả mạo các giấy tờ, tài liệu của người đi vay, rủi ro do người đi vay quản lý tài chính không tốt dẫn đến không trả được nợ, yếu tố thay đổi pháp luật, biến động nhu cầu thị trường, biến động giá cả thị trường, yếu tố về thay đổi bất thường của thời tiết, thiếu các biện pháp bảo hiểm thời tiết xấu, và nông dân không tuân thủ quy trình sản xuất theo thỏa thuận với doanh nghiệp đi vay (hoặc còn gọi là bể kèo, phá vỡ chuỗi của người nông dân), kinh tế vĩ mô diễn biến xấu và bảo hiểm bảo vệ cây trồng và vật nuôi hạn chế. Từ đó, việc triển khai cho vay theo chuỗi giá trị tại các NHTM hiện nay là chưa phổ biến và nhiều NHTM còn khá dè dặt trong việc phát triển hình thức cho vay này. Tóm lại, sự liên kết của các NHTM trong việc cung ứng những dịch vụ tài chính cho các thành viên trong chuỗi giá trị trên thực tế ở Việt Nam còn rất lỏng lẻo và những cam kết của các thành viên trong chuỗi dễ bị phá vỡ do không có chế tài.
Trong nhiều năm tới, ngành nông nghiệp vẫn đóng vai trò trụ đỡ quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Tái cơ cấu và tổ chức lại sản xuất nông nghiệp nói chung, trong đó tái cơ cấu việc nuôi trồng một số sản phẩm chủ lực của nông nghiệp nước ta là một trong những yêu cầu cấp bách. Việc tổ chức sản xuất, cung ứng hàng hóa theo chuỗi giá trị theo hướng bền vững với việc đồng thời ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm hàng hóa là một giải pháp có tính chiến lược. Vì vậy, để phát triển hình thức cho vay theo chuỗi giá trị trong hệ thống ngân hàng, một số giải pháp cần phải được chú trọng như sau:
– Chính phủ có quy hoạch vùng sản xuất/quy hoạch dự án nuôi trồng nông nghiệp để định hướng sản xuất phù hợp với chủ trương tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng bền vững.
– Xây dựng khung pháp lý về hợp đồng kinh tế dân sự có chế tài xử lý cụ thể chủ thể tham gia trong chuỗi giá trị nông nghiệp để từ đó ràng buộc nghĩa vụ, trách nhiệm của các thành viên trong chuỗi giá trị trên cơ sở đảm bảo các nguyên tắc: tự nguyện; bình đẳng, công khai, minh bạch về lợi ích của các bên tham gia; chịu trách nhiệm với những cam kết của mình với các thành viên trong chuỗi; và hợp tác, tương hỗ lẫn nhau trong quá trình xử lý những rủi ro biến động lớn đối với sản xuất.
– Nghiên cứu, triển khai rộng rãi chính sách bảo hiểm trong nông nghiệp để tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng và doanh nghiệp yên tâm trong việc triển khai dự án liên kết, ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là chính sách bảo hiểm đối với các sản phẩm nông nghiệp chủ lực.
– Đối với các NHTM, mỗi ngân hàng cần phải ban hành bản hướng dẫn quy trình, thủ tục cho vay theo chuỗi giá trị đối với từng sản phẩm nông nghiệp đặc trưng. Trong đó, thủ tục cho vay phải bao gồm các nhóm tiêu chí về quy mô của doanh nghiệp, chủ thể trong chuỗi giá trị; nhu cầu sản phẩm dịch vụ tài chính của các chủ thể trong chuỗi; các định chế tham gia đầu tư và cho vay, các loại cho vay trong phân đoạn của chuỗi giá trị; quản trị rủi ro của các định chế tài chính; hiệu quả của dự án; và lợi ích, tổn thất của các định chế tài chính.
– Ngoài ra, các viện nghiên cứu và các tổ chức xã hội nghề nghiệp cũng cần thực hiện vai trò kiến tạo và hỗ trợ triển khai phát triển hình thức cho vay theo chuỗi giá trị thông qua các hoạt động xác nhận các thành viên tham gia trong chuỗi giá trị cũng như cung ứng dịch vụ tư vấn trong quá trình triển khai sản xuất theo chuỗi giá trị bao gồm cả các dịch vụ về đầu ra và chất lượng của sản phẩm cho các thành viên tham gia trong chuỗi giá trị.
ThS. Nguyễn Thị Minh Hằng
Viện Chiến lược ngân hàng
Tài liệu tham khảo
Tài liệu trong nước:
- Quyết định 1050; 1051 của Thống đốc NHNN
- TS. Nguyễn Tiến Đông, ngành ngân hàng với phát triển chuỗi giá trị và ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp
- Viện Chiến lược ngân hàng, Báo cáo kết quả khảo sát về cho vay theo chuỗi giá trị, tháng 1/2017
Tài liệu tiếng nước ngoài:
- United States Agency for International Development (USAID) (9/2012), Strengthening agricultural value chain lending.
- Food and Agriculture Organization of the United Nations (FAO) (2010), Agricultural Value Chain Finance, Calvin Miller and Linda Jones
- African Development Bank (2013). Agricultural Value Chain Financing (AVCF) and Development for Enhanced Export Competitiveness.
[1] Các mức lãi suất cho vay đã được sửa đổi tương ứng là 6,5% (ngắn hạn), 9,5% (trung hạn), 10% (dài hạn) theo Quyết định số 2662/QĐ-NHNN