Chiến lược quốc gia về tài chính toàn diện là một văn bản thể hiện sự cam kết mạnh mẽ của chính phủ trong việc thực hiện mục tiêu dài hạn thúc đẩy tài chính toàn diện. Thực tế được minh chứng bởi nhiều nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (World Bank – WB), cho thấy các quốc gia ban hành và thực hiện chiến lược quốc gia về tài chính toàn diện (Brazil, Malaysia, Nambia và Tanzania) có mức độ tài chính toàn diện cao hơn là những nước thực thi tài chính toàn diện mà không thông qua chiến lược. Trên hết, cả Ngân hàng Thế giới (WB) và Liên minh Tài chính toàn diện (AFI) đều nhận định Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia sẽ thiết lập nên hệ thống các chiến lược bộ phận, các kế hoạch hành động thống nhất từ các cấp, từ trung ương đến địa phương, tạo sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các bên tham gia, và đồng thời cũng tận dụng hiệu quả nguồn lực sẵn có một cách hệ thống, giúp tiết kiệm chi phí và tập trung nguồn lực trong quá trình thực thi tài chính toàn diện giữa các bên có lợi ích liên quan.
Phần dưới đây sẽ giới thiệu kinh nghiệm của hai quốc gia đã xây dựng và thực thi chiến lược tài chính toàn diện quốc gia. Với trình độ phát triển khác nhau, hai quốc gia này cũng chọn cho mình cách thức tiếp cận khác nhau khi xây dựng chiến lược. Với Malaysia, nơi có hệ thống tài chính đã bao phủ rộng khắp cả nước, mục tiêu đặt ra trong chiến lược là nhấn mạnh tới hiệu quả “sử dụng” dịch vụ tài chính chính thức. Điều này khác với mục tiêu gia tăng sự “tiếp cận” , tăng độ bao phủ dịch vụ tài chính tại Tanzania, nơi mà mạng lưới ngân hàng tập trung chủ yếu tại khu vực đô thị, còn phần lớn khu vực nông thôn vẫn còn trống vắng các dịch vụ ngân hàng.
MALAYSIA
Bối cảnh xây dựng chiến lược về tài chính toàn diện tại Malaysia
Vai trò của khu vực tài chính được xác định là động lực thúc đẩy sự chuyển đổi nhằm đạt được nền kinh tế thu nhập cao và nhiều giá trị gia tăng. Vừa cung cấp các dịch vụ tài chính để đẩy nhanh sự chuyển đổi kinh tế, vừa thúc đẩy sự phát triển của những khu vực dịch vụ mới, vừa đóng góp ngày càng nhiều cho tổng sản phẩm quốc nội. Khu vực tài chính Malaysia phấn đấu đạt chất lượng đẳng cấp quốc tế, với giá cả hợp lý dựa trên hiệu quả chi phí và thuận tiện cho người tiêu dùng, dựa trên những yếu tố đặc trưng:
- Cạnh tranh: phân bổ nguồn lực tối ưu đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế; nâng cao năng suất và hiệu quả của khu vực tài chính.
- Năng động: có được sản phẩm dịch vụ và các kênh phân phối sáng tạo; ứng dụng công nghệ mới trong hoạt động kinh doanh.
- Toàn diện: Đáp ứng nhu cầu tài chính cho tất cả các nhóm dân cư trong xã hội; những thực tiễn công bằng và bình đẳng cho người tiêu dùng có giáo dục và được trao quyền.
- Đa dạng: các tổ chức trung gian và thị trường, đa dạng công cụ và đa dạng nhà đầu tư.
- Hội nhập: sự hiện diện mạnh mẽ của các tổ chức tài chính trong khu vực và trên thế giới; Thể hiện bằng sự tham gia sâu rộng vào các hoạt động xuyên biên giới.
Cách tiếp cận của Malaysia phát triển khu vực tài chính được tập trung vào 9 trụ cột:
- Đảm nhiệm tốt vai trò trung gian hiệu quả;
- Thị trường tài chính năng động và có chiều sâu;
- Tài chính toàn diện chia sẻ thành tựu của sự thịnh vượng chung;
- Hội nhập quốc tế và khu vực;
- Quốc tế hóa hoạt động tài chính Hồi giáo;
- Chế độ quản lý và giám sát vững mạnh bảo đảm sự ổn định của hệ thống tài chính;
- Trao quyền cho người tiêu dùng;
- Phát triển thanh toán điện tử để đạt tính hiệu quả kinh tế lớn hơn;
- Hài hòa lợi ích các bên.
Với trụ cột là khu vực tài chính hướng tới tài chính toàn diện, theo đó tất cả thành viên trong xã hội, bao gồm cả những người chưa có tài khoản ngân hàng, cũng có quyền tiếp cận và sử dụng các dịch vụ tài chính cơ bản, có chất lượng và giá cả hợp lý. Thông qua những kênh phân phối hiệu quả và sáng tạo, với một phạm vi sản phẩm dịch vụ phong phú đa dạng và những phương thức thuận tiện.
Một trọng tâm được nhấn mạnh là phát triển thanh toán điện tử được coi là một ưu tiên cho các giao dịch bằng cách khuyến khích thanh toán điện tử, cải thiện cơ sở hạ tầng thanh toán và nâng cao nhận thức của người dân để sử dụng thanh toán điện tử nhiều hơn.
Bên cạnh đó là việc trao quyền cho người tiêu dùng theo hướng xây dựng một văn hóa chịu trách nhiệm chung giữa người tiêu dùng tài chính và những nhà cung cấp dịch vụ thông qua những biện pháp như lồng ghép và phối hợp tốt giữa các chương trình giáo dục tài chính; hoàn thiện thể chế và cơ sở hạ tầng để bảo vệ toàn diện người tiêu dùng tài chính.
Tài chính toàn diện bắt đầu được coi là một nhiệm vụ được quy định tại CBA2009, theo đó bên cạnh các nhiệm vụ khác của ngân hàng trung ương, thì đồng thời cũng phải thúc đẩy một hệ thống tài chính vững mạnh, tiến bộ và toàn diện (không có loại trừ tài chính).
Nhìn lại quá khứ, sự phát triển của khu vực tài chính trong 10 năm từ 2001-2010 tại Malaysia đã đạt được những kết quả lớn về tài chính toàn diện:
- Tỷ lệ bao phủ tính theo số chi nhánh trên 100 nghìn dân trưởng thành đã tăng lên 14,6% tính đến thời điểm tháng 10/2010 so với 11,3% vào cuối 2000;
- Tỷ lệ người có tài khoản tiền gửi đạt 2895/1000 dân trưởng thành thời điểm 9/2010 so với 1974/1000 dân trưởng thành năm 2000.
- Tỷ lệ người có tài khoản tiền vay đạt 850/1000 dân trưởng thành năm 2010 so với 310/1000 dân trưởng thành năm 2000.
- 52 máy ATM trên 100000 dân trưởng thành (so với trung bình các nước thu nhập cao là 94).
Tuy nhiên, những khoảng trống còn lại về tài chính toàn diện đã được xác định:
- 8 huyện chưa có điểm tiếp cận tài chính
- 54% đơn vị xã/làng (mukim) với dân số trên 2000 người chưa có tiếp cận tài chính (hiện diện TCTD)
- 17% dân số trưởng thành sống ở nông thôn (mukim) không có điểm tiếp cận tài chính
- 20,4% dân số trưởng thành không có tài khoản tiền gửi.
Đây chính là điểm khởi đầu cho một chiến lược tài chính toàn diện trong giai đoạn tiếp theo. Các bước định hình chiến lược như sau: Thứ nhất, xác định rõ tầm nhìn kết quả cụ thể mong đợi của tài chính toàn diện; Thứ hai, phát triển cơ sở hạ tầng và hệ thống nhằm thu thập đánh giá số liệu về tài chính toàn diện; Thứ ba, phân tích thực trạng để xác định những lĩnh vực cần can thiệp; Thứ tư, xây dựng dự thảo chiến lược với những mục tiêu đo lường được và xây dựng khung khổ phối hợp chiến lược với các bên liên quan để thu thập ý kiến phản hồi; Thứ năm, thực hiện chiến lược; và Thứ sáu, giám sát và đánh giá kết quả/tác động qua các chỉ tiêu đã đề ra.
Nguyên tắc và quan điểm
Các nguyên tắc và quan điểm hình thành chiến lược bao gồm:
- Khuyến khích sự tham gia tích cực của tất cả các bên liên quan;
- Can thiệp chính sách cần dựa trên cơ sở thị trường và định hướng đến các đối tượng mục tiêu là những người chưa được phục vụ;
- Xây dựng những kết quả có thể định lượng được;
- Căn cứ trên cơ sở hạ tầng tài chính và xã hội hiện tại;
- Ưu tiên vào những nhu cầu cơ bản, thiết yếu trước;
- Tạo điều kiện để những người chưa được phục vụ được tiếp cận tài chính nhằm tạo thu nhập;
- Dựa trên đổi mới công nghệ;
- Các biện pháp can thiệp phải bảo đảm sự ổn định, tính cạnh tranh và phát triển bền vững của hệ thống tài chính.
Khuôn khổ Tài chính toàn diện ở Malaysia
Dựa trên thực trạng và những nguyên tắc đã xác định, khuôn khổ nâng cao tài chính toàn diện được xây dựng trong Chiến lược phát triển khu vực tài chính (2011-2020) của Malaysia có nội hàm như sau:
Tầm nhìn: đạt được một hệ thống tài chính toàn diện phục vụ tốt tất cả các thành viên trong xã hội, bao gồm cả những người chưa được phục vụ, có khả năng tiếp cận và sử dụng những dịch vụ tài chính cơ bản, có chất lượng, có giá cả hợp lý, đáp ứng nhu cầu của mọi người theo hướng chia sẻ thịnh vượng chung.
Mục tiêu cần đạt là: tiếp cận thuận tiện; mức độ sử dụng cao và có trách nhiệm; mức độ hài lòng cao.
Các chiến lược khung gồm: Thứ nhất, các kênh phân phối sáng tạo; Thứ hai, các sản phẩm và dịch vụ đổi mới; Thứ ba, cơ sở hạ tầng tài chính toàn diện hiệu quả; và Thứ tư, những đối tượng phục được cung cấp đầy đủ thông tin và có trách nhiệm.
Chiến lược phát triển khu vực tài chính 2011-2020 xác định 10 giải pháp chiến lược thực hiện tài chính toàn diện: 1) Ngân hàng đại lý; 2) Các kênh phân phối dựa trên công nghệ – ngân hàng di động; 3) Tài chính vi mô linh hoạt; 4) Các sản phẩm tiết kiệm vi mô; 5) Bảo hiểm vi mô; 6) Củng cố năng lực của các ngân hàng chính sách/tổ chức phát triển về tài chính toàn diện; 7) Thiết kế các chương trình đào tạo tài chính toàn diện phù hợp với các đối tượng; 8) Khuôn khổ đánh giá bằng các chỉ số tài chính đo lường được; 9) Dựa vào các tổ chức phi chính phủ để tiến hành các chương trình nâng cao năng lực; 10) Giáo dục tài chính.
Sau 5 năm triển khai chiến lược tài chính toàn diện ở Malaysia, kết quả đạt được đánh giá theo những tiêu chí đã xác định như sau:
- Tiếp cận thuận tiện: Tỷ lệ thôn có hơn 2000 dân có ít nhất 1 điểm tiếp cận tăng từ 46% năm 2011 lên 96% năm 2015;
- Tỷ lệ sử dụng dịch vụ (người trưởng thành): tỷ lệ tài khoản tiền gửi 91%; tỷ lệ tài khoản tiền vay 25% (giảm từ 36%); bảo hiểm nhân thọ 16% (giảm từ 18%)
- Tỷ lệ sử dụng thực tế: Số tài khoản tiền gửi còn hoạt động 92% (tăng từ 87%);
- Mức độ hài lòng đối với dịch vụ tài chính nói chung tăng từ 61% lên 73%.
Như vậy, Malaysia đã xác định tầm quan trọng của tài chính toàn diện đối với sự phát triển của đất nước này và do đó đã đưa nhiệm vụ về tài chính toàn diện trong Luật Ngân hàng trung ương 2009 và Chiến lược tổng thể phát triển khu vực tài chính năm 2011-2020 (Master Plan/Blueprint). Trên cơ sở văn bản pháp luật này, Khuôn khổ tài chính toàn diện đã được xây dựng với một tầm nhìn rõ ràng và đặt ra các mục tiêu cụ thể. Việc có được một sơ sở pháp luật và sự cam kết của Chính phủ là nhân tố quan trọng quyết định sự thành công của chiến lược tài chính toàn diện ở Malaysia.
TANZANIA
Bối cảnh xây dựng chiến lược về tài chính toàn diện
Tanzania đã nhìn nhận tài chính toàn diện như một yếu tố động lực thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và làm giảm nhẹ khả năng dễ tổn thương của cá nhân và hộ gia đình, giảm tình trạng nghèo đói và cải thiện chất lượng sống cho dân chúng ở Tanzania. Tuy nhiên nước này không xây dựng Chiến lược về tài chính toàn diện mà thay vào đó, xây dựng Khuôn khổ về tài chính toàn diện, xuất phát từ những đặc thù mang tính thể chế.
Khuôn khổ tài chính toàn diện tại Tanzania trước hết nhằm tháo gỡ những trở ngại đối với tài chính toàn diện bằng cách thiết lập nên một cơ sở hạ tầng hỗ trợ tăng trưởng các dịch vụ tài chính phù hợp dưới sự chi phối của các kênh tiếp cận hiện đại gắn với ứng dụng công nghệ. Khuôn khổ này nhằm thúc đẩy 50% người trưởng thành tiếp cận được với các dịch vụ tài chính chính thức vào năm 2016. Đây là một cơ sở quan trọng cho sự vận động của tài chính toàn diện. Mục tiêu 50% này tương đồng với những cam kết quốc tế của Ngân hàng Trung ương Tanzania tại Riviera Maya, Mehico năm 2011 theo một sáng kiến toàn cầu được biết tới là “Tuyên bố Maya”.
Khuôn khổ tài chính toàn diện của Tanzania đã được thiết lập thông qua một quá trình tham vấn toàn diện các bên liên quan, thực hiện những nghiên cứu khảo sát chuyên sâu tại Tanzania và các nước đang phát triển. Khuôn khổ này cũng kèm theo việc rà soát các cơ chế, chính sách quốc gia để xác định những trở ngại cơ bản đối với tài chính toàn diện và những giải pháp chiến lược nhằm thúc đẩy sự mở rộng mạng lưới và sử dụng dịch vụ tài chính cơ bản, như gửi tiết kiệm, tín dụng, thanh toán, bảo hiểm và những dịch vụ tiên tiến khác như hưu trí, chứng khoán và chuyển tiền của chính phủ thông qua cơ chế chính thức.
Ngoài ra, khuôn khổ tài chính toàn diện được triển khai trên 3 năm, từ 2014 đến 2016, sẽ được định hướng bằng một tầm nhìn chung và cam kết thực hiện từ các bên liên quan trong việc xây dựng những sáng kiến phối hợp giữa khu vực công và tư. Về cơ bản , đây là một bản kế hoạch mở và được tái xem xét và cập nhật để thích hợp với những yêu cầu mới sau năm 2016.
Nguyên tắc và quan điểm
Khuôn khổ tài chính toàn diện được xây dựng và triển khai thực hiện theo các nguyên tắc hình thành trên lợi ích quốc gia, thông lệ và chuẩn mực quốc tế tốt. Đặc biệt, các chuẩn mực quốc tế định hướng cho việc xây dựng khuôn khổ tài chính toàn diện bao gồm: Các nguyên tắc của Nhóm G20 về Tài chính toàn diện, các đối tác phát triển như Liên minh Tài chính Toàn diện AFI, Ngân hàng Thế giới WB và Quỹ Tiền tệ quốc tế IMF.
Các nguyên tắc định hướng bao gồm:
- Các giải pháp theo cơ chế thị trường để thúc đẩy tài chính toàn diện;
- Các kênh tiếp cận tài chính hiện đại và các sản phẩm thuận tiện, dễ tiếp cận, linh hoạt, có giá cả chấp nhận được và đáp ứng nhu cầu của những người vốn chưa tiếp cận tài chính;
- Bảo vệ khách hàng và giáo dục kiến thức tài chính;
- Khuôn khổ quản lý phù hợp để hỗ trợ cho các sáng kiến tài chính toàn diện và bảo vệ sự ổn định của hệ thống tài chính;
- Đối tác công tư (chính phủ, khu vực tư nhân, các tổ chức quốc tế và các bên liên quan khác);
- Cải thiện mức sống và năng suất lao động;
- Hợp tác và chia sẻ kinh nghiệm.
Khuôn khổ tài chính toàn diện tại Tanzania
Khuôn khổ tài chính toàn diện quốc gia của Tanzania đã thiết lập nên tầm nhìn, căn cứ trên những bước phát triển mà người dân Tanzania mong muốn có được qua việc sử dụng những dịch vụ tài chính, lôi cuốn tất cả các bên liên quan tới dịch vụ tài chính theo một tầm nhìn chung và ban hành định hướng chiến lược cho tất cả các sáng kiến về tài chính toàn diện trong cả nước. Tầm nhìn được xác định là “sử dụng thường xuyên các dịch vụ tài chính thông qua cơ sở hạ tầng thanh toán để quản lý luồng tiền mặt và giảm nhẹ những cú sốc, được cung ứng bởi các nhà cung cấp chính thức thông qua nhiều dịch vụ phù hợp có chất lượng và công bằng.”
Tới năm 2012, mức độ phổ cập tài chính của Tanzania vẫn thấp cho dù nhiều sáng kiến của cả khu vực công lẫn tư được đưa ra, chỉ có 17% người trưởng thành (khoảng 3,7 triệu người) tiếp cận được với tài khoản ngân hàng. Tuy nhiên, sự gia tăng của công nghệ viễn thông với khoảng 30 triệu thuê bao đã cho phép gần 43% dân số trưởng thành (khoảng 9,8 triệu người) có tài khoản thanh toán di động hoạt động vào tháng 9 năm 2013.
Dựa trên kinh nghiệm thành công của quốc gia đối với các dịch vụ thanh toán di động và các loại dịch vụ tài chính do công nghệ chi phối khác, khuôn khổ tài chính toàn diện đã xác lập những kế hoạch chi tiết để gia tăng mức độ phổ cập tài chính tại Tanzania, nhằm đạt được 50% dân số trưởng thành tiếp cận được tài chính chính thức, 50% người sử dụng dịch vụ chính thức, 25% người có tiết kiệm từ mức 2 tuần thu nhập qua kênh chính thức, 25% người có dữ liệu thông tin điện tử về lịch sử cá nhân, thế chấp và tín dụng vào năm 2016.
Trong quá trình xây dựng tầm nhìn dài hạn cùng các mục tiêu cụ thể cần đạt được trong trung hạn, Khuôn khổ đã xác định những trở ngại cơ bản ngăn cản sự gia tăng phổ cập tài chính tại Tanzania. Chúng bao gồm các trở ngại từ phía cung dịch vụ như: lãi suất cao, các dịch vụ không được thiết kế phù hợp để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng là phía cầu dịch vụ, chi phí cao do sự kém hiệu quả của các kênh phân phối dịch vụ. Ngoài ra cũng còn có những trở ngại từ phía cầu dịch vụ: thiếu thông tin về sản phẩm dịch vụ, thu nhập từ kinh tế ngầm, thiếu kiến thức về tài chính… Bên cạnh đó, những trở ngại mang tính cấu trúc và cơ chế cũng tồn tại, như quy định quá chặt hoặc quá lỏng đối với khách hàng, thiếu khung khổ quy định cho các dịch vụ tài chính vi mô, chậm trễ trong việc xây dựng hệ thống định danh quốc gia…
Vì vậy, Khuôn khổ tài chính toàn diện chú trọng tháo gỡ những trở ngại đối với tài chính toàn diện thông qua việc triển khai thực hiện tại những lĩnh vực ưu tiên then chốt đối với các nhân tố động lực chính để tạo ra một cơ sở hạ tầng năng động cho phép thúc đẩy sự gia tăng và mở rộng các dịch vụ tài chính. Các lĩnh vực ưu tiên được xác định gồm:
- Tăng độ bao phủ: khuyến khích và triển khai các kênh tiếp cận mới, như kênh đại lý ngân hàng, các dịch vụ tài chính dựa trên công nghệ di động, điểm bán hàng, thiết bị giao dịch tự động ATM… cùng khung pháp lý cho phép tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi.
- Thúc đẩy việc hình thành các cổng giao dịch điện tử: Bao gồm cải thiện và phát triển các cổng thông tin và cổng thanh toán điện tử công nghệ viễn thông mà có thể tạo điều kiện giảm chi phí tiếp cận dịch vụ tài chính.
- Thúc đẩy việc hình thành hệ thống thông tin khách hàng: Triển khai, quản lý và thúc đẩy việc sử dụng trung tâm thông tin tín dụng, nhận biết khách hàng KYC, cải thiện hệ thống định danh cá nhân được kết nối với hệ thống tài chính và hệ thống thông tin tín dụng.
- Bảo đảm rằng khách hàng phải được thông tin đầy đủ và được bảo vệ: thiết lập cơ chế bảo vệ người tiêu dùng tài chính và chiến lược giáo dục tài chính.
Khuôn khổ Tài chính toàn diện bao gồm cả cơ chế kiểm tra giám sát thực hiện để bảo đảm rằng các bên liên quan chủ yếu phải triển khai những lĩnh vực ưu tiên chủ yếu. Một Hội đồng Tài chính toàn diện quốc gia được thiết lập với tư cách là một cơ quan chính sách, có nhiệm vụ bảo đảm rằng các hành động ưu tiên được xác định trong Kế hoạch hành động phải được triển khai thực hiện và các mục tiêu đã xác định phải đạt được trong khoảng thời gian dự kiến.
Khuôn khổ Tài chính toàn diện là một sáng kiến công – tư và đã được xây dựng thông qua một quá trình tham vấn với những ủy ban khác nhau bao gồm đại diện của tất cả các chủ thể có liên quan.
Cơ chế phối hợp xây dựng và thực hiện Khuôn khổ tài chính toàn diện
Khuôn khổ tài chính toàn diện có liên quan tới nhiều cơ quan và các chủ thể khác nhau. Bởi vậy việc hình thành một cơ chế phối hợp cấp quốc gia là điều cần thiết. Có ba cấp được thành lập, gồm: Hội đồng Quốc gia (NC), Ban chỉ đạo quốc gia (NSC) và Ủy ban Kỹ thuật quốc gia (NTC) về tài chính toàn diện. Ngân hàng trung ương Tanzania là thư ký thường trực cho tất cả các Ủy ban.
Hội đồng quốc gia (National Council – NC) là một cơ quan ra chính sách tổng thể cho chương trình quốc gia thúc đẩy tài chính toàn diện. Hội đồng chịu trách nhiệm định hướng chiến lược tổng thể và giám sát chương trình tài chính toàn diện. Chức năng cụ thể là:
- Xây dựng chiến lược tài chính toàn diện cho Tanznia
- Xem xét các Kế hoạch hành động để đạt được mục tiêu Tài chính toàn diện
- Xem xét quá trình triển khai Tài chính toàn diện
- Xác định các vấn đề chính sách và phê chuẩn đề xuất của Ban Chỉ đạo quốc gia
- Xem xét bất kể vấn đề nào liên quan đến việc thực thi các sáng kiến tài chính toàn diện nếu cần, với quan điểm tư vấn cho chính phủ về cách thức giải quyết tốt nhất.
Ban Chỉ đạo quốc gia (National Steering Committee – NSC) có thành viên là những người đứng đầu 27 bộ và cơ quan chính phủ, các Hiệp hội, các ban hợp tác phát triển…Vai trò cụ thể là:
- Điều phối và giám sát các hoạt động của Ủy ban kỹ thuật, xem xét báo cáo của Ủy ban kỹ thuật về quá trình thực hiện kế hoạch hành động;
- Hướng dẫn các hoạt động của Ủy ban kỹ thuật và khuyến nghị về những vấn đề liên quan đến tài chính toàn diện;
- Chuẩn bị báo cáo đệ trình Hội đồng quốc gia quyết định và ban hành.
Ban Chỉ đạo quốc gia phải báo cáo Hội đồng quốc gia, họp ít nhất một năm hai lần theo định kỳ và họp đột xuất nêu có nhu cầu.
Ủy ban Kỹ thuật quốc gia (National Technical Committee – NTC) là một nhóm công tác hình thành từ các quan chức cấp cao của 27 bộ và cơ quan chính phủ, cơ quan quản lý và hiệp hội nghề nghiệp. Về nguyên tắc, đây là một Ủy ban thực thi và báo cáo về các sáng kiến tài chính toàn diện. Vai trò cụ thể như sau:
- Xây dựng và thực hiện Khuôn khổ tài chính toàn diện
- Xây dựng nhận thức cộng đồng về tài chính toàn diện
- Xem xét Kế hoạch hành động trong Khuôn khổ
- Xác đinh, đo lường các chỉ số phát triển
- Đánh giá các chỉ số
- Xác định những trở ngại chủ yếu đối với các hoạt động tài chính toàn diện
- Xác định cơ hội cho tài chính toàn diện
- Chuẩn bị các báo cáo đệ trình Ban Chỉ đạo
Hội đồng Kỹ thuật quốc gia hình thành mối liên kết giữa các định chế và Ủy ban với vai trò là thành viên, chia sẻ kinh nghiệm về những sáng kiến, cùng thách thức mà các định chế gặp phải trong quá trình thực thi tài chính toàn diện. Ủy ban kỹ thuật báo cáo cho Ban Chỉ đạo và mỗi quý họp định kỳ một lần.
Tổ Thư ký quốc gia giữ vai trò thường trực, thu thập và tổng hợp thông tin về tài chính toàn diện, cung cấp thông tin nếu được yêu cầu. Tổ thư ký chịu trách nhiệm tổ chức tất cả các cuộc họp cho các cấp hội đồng, ủy ban khác nhau và xây dựng trước chương trình tài chính toàn diện và báo cáo cho tất cả các cấp hội đồng/ban/ủy ban nói trên. Tổ thư ký quốc gia do Ngân hàng trung ương Tanzania đảm nhận, xuất phát từ vai trò trung tâm của Ngân hàng đối với tài chính toàn diện tại quốc gia này.
BÀI HỌC KINH NGHIỆM
- Tài chính toàn diện là một vấn đề lớn/bao trùm/liên ngành có ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế và tất cả các khu vực trong nền kinh tế. Do đó để triển khai thành công một chiến lược có tầm ảnh hưởng lớn như vậy cần phải có được sự cam kết của Chính phủ/phê chuẩn của Thủ tướng để giải quyết được một vấn đề quan trọng là sự phối hợp giữa các bộ ngành liên quan. Trường hợp Malaysia, Ngân hàng trung ương được giao là cơ quan đầu não xây dựng và triển khai thực hiện tài chính toàn diện mà không cần phải có một chiến lược riêng do Thủ tướng phê chuẩn là vì Ngân hàng trung ương Malaysia bao hàm cả khu vực bảo hiểm do đó không gặp vấn đề lớn trong phối hợp. Trong khi với các nước khác, nếu khu vực ngân hàng, bảo hiểm và chứng khoán thuộc các bộ quản lý khác nhau thì, chiến lược tài chính toàn diện tổng thể có một ủy ban/hội đồng điều phối đứng đầu là thủ tướng/Phó thủ tướng với các thành viên khác là lãnh đạo các bộ liên quan, tuy nhiên vai trò điều phối viên vẫn thuộc về Ngân hàng trung ương.
- Việc xác định những chỉ tiêu lượng hóa về tài chính toàn diện của quốc gia có ý nghĩa rất quan trọng để đánh giá kết quả thực hiện mục tiêu chiến lược qua từng giai đoạn, từ đó có biện pháp điều chỉnh kịp thời. Tuy nhiên, việc xây dựng và thiết kế các chỉ tiêu định lượng cần đảm bảo những yếu tố cơ bản: thống nhất về mặt quốc tế; dễ thu thập và đo lường, phù hợp với quốc gia. Một số nước trên thế giới thực hiện tài chính toàn diện đã thống nhất sử dụng bộ chỉ số của AFI và trên cơ sở đó phát triển thành bộ chỉ số của quốc gia như Malaysia đã làm.
- Một chiến lược tài chính toàn diện thành công cần phải huy động được sự tham gia của tất cả các tác nhân trong nền kinh tế, bao gồm từ khu vực nhà nước, khu vực tư nhân và khu vực dân sự/phi chính phủ. Sự tham gia này cũng cần thiết ngay trong quá trình soạn thảo xây dựng chiến lược để đảm bảo hài hòa lợi ích của tất cả các bên. Đặc biệt là sự can thiệp của nhà nước nếu có cũng cần dựa trên những nguyên tắc thị trường để các kết quả đạt được có tính chất bền vững.
- Tuyên truyền và giáo dục nâng cao sự hiểu biết cũng như thái độ/nhận thức của cả phía người dân và nhà cung cấp dịch vụ đều có ý nghĩa quan trọng như nhau. Đây là yếu tố cốt lõi để có được mối quan hệ có trách nhiệm của cả hai bên.
MỘT SỐ HÀM Ý CHO VIỆT NAM
- Việc xây dựng Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia là cần thiết, bởi đây là một cấu phần không thể thiếu trong chiến lược tăng trưởng toàn diện quốc gia, nhằm đảm bảo cho mọi thành phần trong xã hội đều được thụ hưởng những thành quả của tăng trưởng mang lại. Xu hướng xây dựng Chiến lược tài chính toàn diện là phổ biến ở các nước đang phát triển. Chiến lược tài chính toàn diện có thể được thông qua dưới hình thức là một cấu phần của chiến lược phát triển khu vực tài chính nói chung như tại Malaysia, hoặc là một Khuôn khổ tài chính toàn diện và khuôn khổ này chi phối các hoạt động cụ thể dưới hình thức kế hoạch hành động như tại Tanzania. Tại Việt Nam, cần đặt mục tiêu xây dựng Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia trình Thủ tướng Chính phủ thông qua, bởi nội dung chiến lược cần mang tính dài hạn với các kế hoạch thực hiện trung hạn; đồng thời cần mang tính toàn diện – không chỉ bao gồm các nhà cung cấp dịch vụ ngân hàng, các TCTD mà còn bao gồm các tổ chức vận hành mạng viễn thông, tổ chức phát triển tiền điện tử, tiền di động, không chỉ là các dịch vụ ngân hàng, mà còn cả các dịch vụ tài chính khác như bảo hiểm.
- Việc xây dựng Chiến lược về tài chính toàn diện cần thông qua một cơ chế phối hợp, trong đó NHNN giữ vai trò chủ trì, xuất phát từ đặc điểm của tài chính toàn diện là hầu hết liên quan đến hoạt động ngân hàng. Các dịch vụ ngân hàng cơ bản: gửi tiền, tín dụng và thanh toán là những cấu phần chủ chốt của tài chính toàn diện. Những nội dung khác liên quan cần có sự tham gia phối kết hợp chặt chẽ của các bộ ngành khác, như Bộ Tài chính, Bộ Lao động thương binh và xã hội (liên quan tới các sản phẩm tài chính khác như bảo hiểm, quỹ hưu trí…), Bộ Giáo dục (liên quan tới giáo dục tài chính). Theo đó, NHNN cần chủ động đề xuất thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia về tài chính toàn diện, có sự tham gia của đại diện Lãnh đạo các Bộ và cơ quan Chính phủ do một Phó Thủ tướng là Trưởng Ban, Thống đốc NHNN làm Phó Trưởng ban thường trực, xuất phát từ vai trò chủ chốt của NHNN trong việc thúc đẩy tài chính toàn diện. Ban có nhiệm vụ chỉ đạo, điều hành và phối hợp triển khai một cách đồng bộ và hiệu quả các khía cạnh/nội dung của tài chính toàn diện ở cấp quốc gia.. Dưới Ban chỉ đạo quốc gia cần có Ban Chỉ đạo ngành ngân hàng về tài chính toàn diện, đóng vai trò Thường trực của Ban Chỉ đạo quốc gia, điều hành việc triển khai tài chính toàn diện trong ngành ngân hàng; đồng thời trực tiếp tham mưu/tư vấn cho Phó Trưởng Ban thường trực quốc gia (Thống đốc NHNN). Ở cấp kỹ thuật, Tổ Thường trực cần hình thành như một cơ cấu giúp việc cho Ban Chỉ đạo, với nhiệm vụ trước mắt là soạn thảo Chiến lược quốc gia về tài chính toàn diện, xây dựng chương trình, kế hoạch hoạt động để trình thông qua, đầu mối tổ chức họp, hội thảo, tọa đàm tham vấn ý kiến để hoàn thiện nội dung dự thảo Chiến lược và đề xuất các bước triển khai cụ thể.
- Quá trình xây dựng, triển khai thực hiện chiến lược, để bảo đảm hiệu quả cần thông qua 6 bước như sau:
- Phân tích, đánh giá thực trạng (dựa trên số liệu bên cung thu thập được từ hệ thống thông tin hiện có), xác định những trở lực chính.
- Xây dựng khuôn khổ chiến lược: gồm tầm nhìn, lựa chọn chỉ số đo lường tài chính toàn diện phù hợp với Việt Nam, lựa chọn các trụ cột Chiến lược.
- Điều tra khảo sát đánh giá nhu cầu (đối tượng doanh nghiệp nhỏ và vừa, cá nhân).
- Dựa trên kết quả khảo sát, hoàn thiện bản dự thảo Chiến lược chi tiết, mục tiêu tổng thể/tầm nhìn, kết quả cụ thể cho từng giai đoạn, các chỉ tiêu lượng hóa, giải pháp theo trụ cột chiến lược, lộ trình chiến lược và tổ chức thực hiện để trình Thủ tưởng Chính phủ ký ban hành.
- Xây dựng khung giám sát và đánh giá thực hiện chiến lược.
- Triển khai thực hiện theo kế hoạch hành động chi tiết.
Qua mỗi bước có thể có sự tham vấn các bên liên quan, gồm các nhà khoa học, các nhà kinh tế (cả trong và ngoài nước), các chuyên gia quốc tế và các đối tác phát triển… dưới hình thức tổ chức hội thảo, tọa đàm và mời tham gia ý kiến phản biện. Từ đó, Chiến lược sẽ dần hoàn thiện, bao hàm đầy đủ những nội dung trong các lĩnh vực liên quan. Việc giám sát quá trình thực hiện Chiến lược cũng cần được coi trọng và điều này nên dựa trên cơ sở khảo sát định kỳ những người trực tiếp thụ hưởng thành quả Chiến lược. Thông tin từ các cuộc điều tra khảo sát bên cầu sẽ hết sức cần thiết cho các nhà lập chiến lược để hiểu thấu đáo hơn rằng liệu các giải pháp đưa ra có giúp đạt đến những mục tiêu Chiến lược hay không, và liệu rằng những đối tượng cuối cùng mà Chiến lược hướng tới là người dân và doanh nghiệp, đặc biệt là những người yếu thế, các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ thực sự có cơ hội bình đẳng để tiếp cận các dịch vụ tài chính chính thức, và từ đó thụ hưởng những thành quả do phát triển kinh tế đem lại và không ai bị bỏ lại đằng sau./.
ThS. Lê Phương Lan
ThS. Đinh Xuân Hà
Viện Chiến lược ngân hàng